Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
5/5 - (10 bình chọn)

Các Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại hiện nay đa số rất nhiều ở các doanh nghiệp mà đa số đều ít ai biết. Và dưới đây mình sẽ chia sẻ với các bạn sinh viên luật cũng như các bạn đang tìm hiểu đề tài này biết những hành vi đó sẽ ra sao và chịu xử theo pháp luật như thế nào.

Và đây cũng là 1 trong những đề tài để làm bài báo cáo thực tập luật thương mại hay và thực tế dễ đạt điểm cao, các bạn tham khảo nha

Theo tình hình hiện nay, các bạn sinh viên hầu như không có thời gian làm bài báo cáo thực tập của mình. Nhưng các bạn đừng lo, bên mình có thuê viết báo cáo thực tập cho các bạn sinh viên. Hãy nhanh tay liên hệ zalo: 0909232620 để được tư vấn và hỗ trợ ngay nhé


Mục lục

Hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền

Hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền là hành vi của bên nhượng quyền khi đưa ra một mức giá quá cao đối với bên nhận quyền mà mức giá đó được cho là không phù hợp với quy luật chung của thị trường.

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP, Luật Cạnh tranh 2018, hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền nếu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của bên nhượng quyền và thỏa mãn hai điều kiện sau đây: (i) Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó; (ii) Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá.(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Nếu bên nhượng quyền vi phạm quy định này, họ có thể bị cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức phạt tối đa là 10% tổng doanh thu của bên nhượng quyền trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài ra, bên nhượng quyền cũng phải loại bỏ những yêu cầu trái luật trong việc áp đặt giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho bên nhận quyền nếu trong hợp đồng nhượng quyền có quy định .

Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng không phải mọi hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền đều bị cấm. Hành vi này chỉ bị coi là bất hợp pháp khi bên nhượng quyền đạt vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường liên quan.

Nghĩa là, nếu bên nhượng quyền đạt ngưỡng thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể (Bên nhượng quyền có vị trí thống lĩnh thị trường) hoặc nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà bên nhượng quyền kinh doanh trên thị trường liên quan (Bên nhượng quyền có vị trí độc quyền) thì việc áp đặt giá bán bất hợp lý như nêu trên mới bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh (Khoản 1 Điều 11, Điều 12, Khoản 2 Điều 13 và Khoản 1 Điều Luật Cạnh tranh 2018).


Hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng

Hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi của bên nhượng quyền, theo đó, bên nhượng quyền đưa ra một mức giá bán lại tối thiểu buộc bên nhận quyền phải tuân theo khi bán lại sản phẩm trên thị trường. Hành vi này thường xảy ra trong quan hệ nhượng quyền phân phối, nghĩa là, bên nhận quyền mua hàng hóa của bên nhượng quyền để bán lại cho khách hàng. Đối tượng tác động trực tiếp của hành vi chính là giá bán hàng hóa của bên nhận quyền cho khách hàng. Khác với hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý (mức giá bị tác động là giá bán hàng hóa của bên nhượng quyền cho bên nhận quyền), hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu lại tác động trực tiếp lên giá bán hàng hóa của bên nhận quyền cho khách hàng, khi hàng hóa đó được mua từ bên nhượng quyền để bán lại. Khi thực hiện hành vi này, bên nhượng quyền thường hướng tới mục đích nhằm hạn chế cạnh tranh trong hệ thống nhượng quyền cũng như hạn chế khả năng cạnh tranh của bên nhận quyền đối với bên nhượng quyền, bởi lẽ trong trường hợp này cả hai bên đều bán các sản phẩm cùng loại, cũng có thể bên nhượng quyền hướng tới bảo vệ uy tín và đẳng cấp của sản phẩm trong “con mắt” người tiêu dùng.(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Xem Thêm ==> Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện

Theo quy định chi tiết một số điều của Luật Cạnh, hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc khống chế không cho phép các nhà phân phối, các nhà bán lẻ bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã quy định trước. Hành vi này bị kiểm soát vì gây thiệt hại cho khách hàng trong điều kiện khách hàng ít có khả năng lựa chọn một nhà cung cấp khác thay thế do bên áp đặt giá bán lại tối thiểu là bên có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường.

Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên ấn định giá bán lại tối thiểu chính là bên nhượng quyền. Lý do chính yếu của sự tồn tại hành vi ấn định giá bán lại trong quan hệ nhượng quyền thương mại chính là nhằm hướng tới loại bỏ cạnh tranh về giá trong hệ thống nhượng quyền, thông qua đó, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Bởi lẽ, đặc trưng của hệ thống nhượng quyền chính là tính đồng bộ, sự đồng bộ này phải được đảm bảo từ mọi khía cạnh như cung cách phục vụ, chất lượng sản phẩm cho đến giá cả sản phẩm… Nếu bên nhận quyền không tuân thủ, chẳng hạn, giảm giá sản phẩm để thu hút khách hàng, điều này sẽ tạo ra sự không đồng nhất về giá cả trong hệ thống, tạo ra sự cạnh tranh trong nội bộ hệ thống, thậm chí có thể làm cho danh tiếng của sản phẩm trong lòng người tiêu dùng bị ảnh hưởng.(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, hành vi của bên nhượng quyền trong việc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng sẽ tác động trực tiếp đến quyền tự do xác định giá bán của bên nhận quyền. Bên cạnh đó, hành vi này sẽ gián tiếp làm mất đi cơ hội được lựa chọn và sử dụng hàng hóa/dịch vụ với mức giá hợp lý của người tiêu dùng. Hậu quả là, hạn chế khả năng cạnh tranh về giá của bên nhận quyền đối với bên nhượng quyền và sự cạnh tranh giữa các bên nhận quyền với nhau trong cùng hệ thống nhượng quyền và xa hơn nữa là hạn chế khả năng cạnh tranh của các hệ thống nhượng quyền.

Tuy nhiên, việc điều chỉnh hành vi ấn định giá bán lại của bên nhượng quyền đứng trước mâu thuẫn lớn về quan điểm xử lý giữa hai hệ thống văn bản: Luật Thương mại và Luật Cạnh tranh. Để điều chỉnh hành vi này, chúng ta cần xác định lợi ích nào cần được ưu tiên bảo vệ. Bảo vệ cạnh tranh hay ưu tiên ghi nhận những yêu cầu phát sinh từ bản chất của hoạt động nhượng quyền? Nếu khuyến khích hoạt động nhượng quyền thương mại tồn tại và phát triển thì việc ấn định giá bán lại nhằm bảo vệ tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền trong chừng mực nào là vừa đủ?(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại

Theo quy định hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng là việc khống chế không cho phép bên nhận quyền bán lại hàng hóa thấp hơn mức giá đã quy định trước . Nếu bên nhượng quyền vi phạm quy định này, họ có thể bị cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức phạt tối đa là 10% tổng doanh thu của bên nhượng quyền trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài ra, bên nhượng quyền cũng phải loại bỏ những yêu cầu trái luật trong việc ấn định giá bán lại tối thiểu nếu trong hợp đồng nhượng quyền có quy định.

Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, theo pháp luật cạnh tranh hiện hành không phải mọi hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền đều bị cấm theo quy định của pháp luật cạnh tranh, hành vi này chỉ bị coi là bất hợp pháp khi bên nhượng quyền nắm giữ ít nhất 30% thị phần trên thị trường liên quan (đạt vị trí thống lĩnh) hoặc không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà bên nhượng quyền kinh doanh trên thị trường liên quan (có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan)

Xem Thêm ==> Báo cáo thực tập Luật Hình sự [ Đề tài + Đề Cương + Bài Mẫu]

Về vấn đề này, theo cách tiếp cận của pháp luật Liên minh Châu Âu (EU) quy định tại Điều 4(a) của Nghị Quyết 2790/99 về áp dụng Điều 81(3) EC đối với các thỏa thuận theo chiều dọc (là các thoả thuận được thực hiện giữa các chủ thể là các chủ thể kinh tế nằm ở vị trí khác nhau của cùng một chu trình sản xuất, phân phối hoặc lưu thông hàng hóa. Ví dụ: thoả thuận giữa nhà sản xuất với nhà phân phối) – sau đây gọi tắt là Nghị quyết 2790/99, hành vi áp đặt giá bán lại nhằm hạn chế quyền tự định giá bán của bên nhận quyền bị cấm tuyệt đối mà không có bất kỳ ngoại lệ nào và do vậy, không được miễn trừ chung. Nói cách khác, hành vi áp đặt giá bán lại được cấu thành khi bên nhận quyền bị buộc phải tuân thủ một mức giá tối thiểu hoặc một mức giá cố định áp đặt bởi bên nhượng quyền. Hành vi áp đặt giá bán lại dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều bị cấm tuyệt đối theo Điều 4(a) của Nghị Quyết 2790/99. Bên cạnh cách thức ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, Ủy ban Châu Âu cũng cho rằng các biện pháp mang ý nghĩa khuyến khích tích cực của bên nhượng quyền như việc áp dụng một hệ thống kiểm soát về giá, hay việc áp đặt nghĩa vụ buộc bên nhận quyền phải thông báo cho các bên nhận quyền khác những thay đổi về giá của mình so với mức giá chung thống nhất cũng có những ảnh hưởng tương tự như hành vi ấn định giá bán lại . Mặt khác, việc ấn định giá bán một cách trực tiếp hoặc gián tiếp có thể phát huy hiệu quả khi kết hợp với các biện pháp gián tiếp khác như in trực tiếp giá khuyến cáo lên hàng hóa, hoặc buộc bên nhận quyền phải tuân thủ các điều khoản dành ưu đãi về giá cho khách hàng Ủy ban Châu Âu cũng cho rằng các biện pháp mang ý nghĩa khuyến khích tích cực của bên nhượng quyền và các biện pháp gián tiếp như vừa nêu trên nếu kết hợp với việc đưa ra khuyến cáo về giá hoặc ấn định giá bán tối đa có thể dẫn đến một hành vi áp đặt giá bán lại Như vậy, Nghị Quyết 2790/99 đã điều chỉnh hành vi này trên nguyên tắc vi phạm hiển nhiên (per se rule), nghĩa là mọi khuyến cáo về giá của bên nhượng quyền nếu dẫn tới sự thống nhất về giá trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền sẽ bị coi là hành vi áp đặt giá bán vi phạm Điều 4(a) Nghị Quyết 2790/99. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản quyền của bên nhượng quyền quy định giá tối đa hoặc đưa ra khuyến cáo về giá, miễn là các khuyến cáo về giá này không dẫn đến việc áp đặt một mức giá tối thiểu hoặc một mức giá cố định(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Tóm lại: Trên cơ sở nội dung pháp luật điều chỉnh hành vi ấn định giá bán lại hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu trong hoạt động nhượng quyền thương mại của Việt Nam và EU như đã phân tích trên, có thể chỉ ra một số khác biệt cơ bản trong pháp luật điều chỉnh hành vi này giữa hai hệ thống pháp luật như sau:

Một là, Luật Cạnh tranh Việt Nam không đề cập đến hành vi khuyến cáo về giá và vì vậy, không điều chỉnh đối với hành vi này, trong khi, pháp luật EU cho rằng không phải mọi hình thức tồn tại dưới dạng khuyến cáo về giá đều được phép. Hành vi khuyến cáo về giá của bên nhượng quyền nếu dẫn tới hậu quả là tạo ra một mức giá thống nhất trong hệ thống nhượng quyền thì cũng bị coi như hành vi ấn định giá bán lại và bị cấm không có miễn trừ.

Hai là, Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu chỉ bị kiểm soát nếu bên nhượng quyền đạt vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường, trong khi Liên mình Châu Âu cấm tuyệt đối không phụ thuộc vào thị phần của bên nhượng quyền.
Với sự khác biệt như trên, vấn đề đặt ra đối với pháp luật Việt Nam là, trong điều kiện hoạt động nhượng quyền thương mại, việc kiểm soát hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu trong chừng mực nào là hợp lý? Tác giả cho rằng, Việt Nam có thể học hỏi một phần kinh nghiệm của EU trong việc điều chỉnh đối với những hành vi mang bản chất khuyến cáo dẫn đến sự thống nhất về giá trong hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, pháp luật của EU cũng có điểm chưa thực sự hợp lý khi áp dụng nguyên tắc vi phạm hiển nhiên (per se rule) và nguyên tắc cấm tuyệt đối không phụ thuộc vào thị phần của bên nhượng quyền đối với hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu trong quan hệ nhượng quyền


Hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng

Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng là hành vi của bên nhượng quyền, theo đó, bên nhượng quyền buộc bên nhận quyền ngoài việc việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ là đối tượng của hợp đồng, bên nhận quyền còn phải mua hàng hóa, dịch vụ khác từ bên nhượng quyền hoặc từ nhà cung cấp khác được bên nhượng quyền chỉ định trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng

Xem Thêm ==> Báo cáo thực tập Luật Kinh tế [Đề tài + Đề Cương+ Bài Mẫu]

Trong pháp luật cạnh tranh EU, hành vi này còn được gọi là “ràng buộc bán kèm” có khả năng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh tranh và bị ngăn cấm. Hậu quả của hành vi này là, hình thành nên các hợp đồng mua bán kèm, theo đó, ngoài việc nhận chuyển giao phương thức kinh doanh của bên nhượng quyền (quyền thương mại), bên nhận quyền còn phải mua thêm hàng hóa, dịch vụ khác không liên quan đến việc thực hiện hợp đồng chính (hợp đồng nhượng quyền) hoặc phải thực hiện những nghĩa vụ không đương nhiên phát sinh từ hợp đồng nhượng quyền thương mại, nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng. Theo quy định tại Khoản 5, Điều 13 và Khoản 1, Điều 14, Luật Cạnh tranh 2018, hành vi này sẽ bị coi là vi phạm pháp luật cạnh tranh nếu bên nhượng quyền đạt ngưỡng thị phần từ 30% trên thị trường liên quan. Quy định này có nghĩa là, việc buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng hợp đồng không bị cấm trong mọi trường hợp. Hành vi này chỉ bị cấm khi bên nhượng quyền đạt vị trí thống lĩnh trên thị trường (30% thị phần), với vị trí đó, hành vi trên của bên nhượng quyền có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cạnh tranh trên thị trường.(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Xét trên khía cạnh bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền và bên nhận quyền là các chủ thể pháp lý độc lập, do vậy, về nguyên tắc, bên nhận quyền có quyền lựa chọn nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ với giá cạnh tranh nhất và các điều kiện khác tốt nhất. Tuy nhiên, nếu như hàng hoá, dịch vụ của nhà cung cấp này có chất lượng kém hoặc không đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật của bên nhượng quyền thì có thể làm ảnh hưởng đến danh tiếng cũng như tính đồng bộ của toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Bởi vậy, nhằm bảo vệ tốt nhất sự đồng bộ và danh tiếng của hệ thống nhượng quyền, bên nhượng quyền thường đưa ra những yêu cầu mang tính áp đặt liên quan đến nguồn cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho bên nhận quyền trong quá trình kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại. Theo đó, bên nhận quyền buộc phải mua hàng hoá, dịch vụ của chính bên nhượng quyền hoặc của nhà cung cấp do bên nhượng quyền chỉ định trước. Với yêu cầu này, bên nhượng quyền có thể giám sát được chất lượng của hàng hoá, dịch vụ được cung cấp bởi bên nhận quyền đồng thời đảm bảo được tính đồng bộ và danh tiếng của toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Chẳng hạn, khi nhượng quyền kinh doanh Cà phê Trung Nguyên, bên nhượng quyền thường yêu cầu bên nhận quyền phải mua cà phê bột từ một nguồn cung cấp nhất định nhằm bảo đảm chất lượng cà phê đồng nhất về hương vị, màu sắc… trong toàn bộ hệ thống. Hành vi này sẽ giúp bên nhượng quyền kiểm soát được chất lượng sản phẩm một cách hiệu quả, tránh rủi ro từ việc cung cấp cà phê chất lượng thấp từ phía bên nhận quyền, gây ảnh hưởng đến sự lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng trong việc đánh giá chất lượng sản phẩm của hệ thống nhượng quyền. Chẳng hạn, nếu bên nhận quyền X ở Hà Nội cung cấp sản phẩm kém chất lượng, người tiêu dùng sẽ có khả năng không tiếp tục lựa chọn Cà phê Trung Nguyên do họ cho rằng, chất lượng của toàn bộ hệ thống nhượng quyền cà phê Trung Nguyên là như nhau dù ở bất kỳ vị trí địa lý nào. Điều đó sẽ có khả năng làm sụp đổ cả hệ thống nhượng quyền, gây thiệt hại không chỉ cho bên nhượng quyền mà còn cho tất cả các bên nhận quyền còn lại và đương nhiên khi nhìn xa hơn, có khả năng làm suy yếu năng lực cạnh tranh của cả hệ thống nhượng quyền.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngoài mục đích đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền mà bên nhượng quyền thường viện dẫn để biện hộ cho hành vi này, việc thực hiện hành vi “ràng buộc bán kèm” nêu trên của bên nhượng quyền đôi khi còn nhằm thực hiện một số mục đích ẩn giấu khác như “để tăng doanh thu”, “để thu lợi bằng cách thỏa thuận trước với nhà cung cấp về việc hưởng hoa hồng từ hợp đồng cung cấp giữa bên nhận quyền và các nhà cung cấp được bên nhượng quyền chỉ định” v.v…, bên nhượng quyền có thể buộc bên nhận quyền phải ký kết các hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ với các nhà cung cấp nhất định, mặc dù có những trường hợp, hàng hoá hoặc dịch vụ đó không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng hoặc việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó trong quá trình kinh doanh không ảnh hưởng tới tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền thương mại. Chẳng hạn, bên nhượng quyền cà phê Trung Nguyên ngoài việc buộc bên nhận quyền mua cà phê bột từ một nguồn chỉ định trước, còn yêu cầu bên nhận quyền phải mua một số hàng hóa, nguyên vật liệu khác như sử dụng điều hòa, máy tính tiền… từ một nhà cung cấp chỉ định, mặc dù, có thể những hàng hóa này không phải là hàng hóa liên quan trực tiếp đến đối tượng nhượng quyền, cũng không có ý nghĩa trong việc đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền và bên nhận quyền có thể mua sản phẩm này từ nhà cung cấp khác với cùng đặc tính, chất lượng và mẫu mã giống như sản phẩm từ nhà cung cấp do bên nhượng quyền chỉ định. Rõ ràng, ở trường hợp này, việc yêu cầu bên nhận quyền phải mua những sản phẩm này không có ý nghĩa trong việc duy trì tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền mà có thể bên nhượng quyền hướng tới một đặc quyền khác trong mối quan hệ với nhà cung cấp mà bên nhượng quyền chỉ định.(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Xem Thêm ==> đề tài tốt nghiệp nghĩa vụ cấp dưỡng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2020

Xét dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, hành vi này gây ra hậu quả như hạn chế sự tự do của bên nhận quyền trong việc lựa chọn nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ trong quá trình kinh doanh. Bởi lẽ, với việc thực hiện những yêu cầu này đồng nghĩa với việc bên nhận quyền sẽ phải tiêu dùng những sản phẩm nhất định của bên nhượng quyền hoặc của nhà cung cấp do bên nhượng chỉ định trước. Bên nhận quyền sẽ không có cơ hội tìm kiếm nguồn nguyên liệu/ sản phẩm có chất lượng tốt và phù hợp với yếu tố địa phương của chính mình. Đặc biệt nếu các hàng hóa, dịch vụ mà bên nhận quyền buộc phải mua không trực tiếp tạo ra sản phẩm chính (sản phẩm đặc trưng của hệ thống nhượng quyền), không ảnh hưởng đến chất lượng và uy tín của hệ thống thì việc bên nhượng quyền áp đặt ý chí của mình đối với bên nhận quyền là không cơ sở và đang tạo ra rào cản cạnh tranh đối với doanh nghiệp khác trên thị trường sản phẩm bán kèm, mặc dù thỏa thuận đó được núp dưới vỏ bọc mục đích đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống nhượng quyền. Bên cạnh đó, hành vi buộc bên nhận quyền chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng (“ràng buộc bán kèm”) cũng tạo nên hệ lụy hạn chế, thậm chí loại bỏ khả năng cạnh tranh của các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ khác trên thị trường hàng hóa, dịch vụ được “ràng buộc bán kèm”.

Theo quy định tại Khoản 5, Điều 13 Luật Cạnh tranh 2018 và Khoản 2, Điều 30 Nghị định số 119/2011/NĐ-CP , hành vi bán kèm của bên nhượng quyền sẽ vi phạm và bị cấm nếu sản phẩm được bán kèm “không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” hay “nằm ngoài phạm vi cần thiết để thực hiện hợp đồng”. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa giải thích cụ thể sản phẩm và dịch vụ nào thì được coi là “không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại” và “nằm ngoài phạm vi cần thiết thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại”. Bởi trong quan hệ nhượng quyền thương mại, đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại là một “gói quyền”, bao gồm nhiều yếu tố thuộc quyền sở hữu trí tuệ như tên thương mại, nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh… cũng như các yếu tố khác liên quan đến dấu hiệu nhận biết thương nhân như phương thức phục vụ, dịch vụ hậu mãi, màu sắc cửa hàng… chứ không chỉ đơn thuần là một loại hàng hóa hữu hình. Do đó, giả sử trong quan hệ nhượng quyền của thương hiệu KFC, bên nhượng quyền yêu cầu bên nhận phải mua đĩa, dĩa, khăn giấy từ những nhà cung cấp do KFC chỉ định trước, thì liệu đây có được coi là thỏa thuận “ràng buộc bán kèm”, không liên quan đến đối tượng của hợp đồng là “quyền được kinh doanh thức ăn nhanh theo phương thức và thương hiệu của KFC” hay không, khi mà những yếu tố như hình thức, chất lượng của các sản phẩm như đĩa, dĩa, khăn giấy trên đều cấu thành nên một phần hình ảnh đặc trưng của thương hiệu KFC.(Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại)

Kinh nghiệm lập pháp của EU cho thấy trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền có thể áp đặt cho bên nhận quyền những điều kiện mua hàng hóa, dịch vụ từ chính bên nhượng quyền hoặc từ những nguồn do bên nhượng quyền chỉ định trước nếu như điều này là cần thiết để duy trì tính đồng bộ của chất lượng sản phẩm hoặc để đảm bảo tính thống nhất và giữ gìn danh tiếng của cả hệ thống nhượng quyền thương mại.

Một nhà sản xuất đã phát minh ra một phương thức bán kẹo mới với các cửa hàng được bài trí vui mắt, nơi mà kẹo có thể có các màu sắc hết sức đặc biệt theo ý thích của khách hàng. Nhà sản xuất kẹo đồng thời cũng phát minh ra máy tô màu cho kẹo và chất màu. Chất lượng và độ tươi của chất màu là yếu tố quan trọng để sản xuất ra kẹo ngon. Nhà sản xuất đã thành công với loại kẹo đó cùng với hàng loạt các cửa hàng của chính nhà sản xuất này được mở ra và hoạt động dưới cùng một tên thương mại và cùng một hình ảnh thương mại (phong cách bài trí của cửa hàng, quảng cáo cho sản phẩm…). Nhằm mở rộng việc bán hàng, nhà sản xuất bắt đầu sử dụng phương thức nhượng quyền thương mại. Các bên nhận quyền có nghĩa vụ phải mua kẹo, chất màu và máy tô màu cho kẹo từ nhà sản xuất và phải có hoạt động kinh doanh dưới một tên thương mại chung. Bởi lẽ việc mua những hàng hóa/nguyên vật liệu này từ bên nhà sản xuất (bên nhượng quyền) là yếu tố cần thiết để đảm bảo chất lượng cũng như tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền.


Các Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nhượng quyền thương mại được mình chia sẻ với các bạn sinh viên ngành luật tham khảo nhé, những nội dung mà mình vừa chia sẻ sẽ giúp các bạn ít nhiều trong quá trình học tập tại đại học và cũng như là trong quá trình hoàn thành bài báo cáo thực tập ngành luật của mình

Những bạn sinh viên có nhu cầu viết thuê tiểu luận, báo cáo thực tập, khóa luận hãy nhanh tay liên hệ zalo : 0909232620 để gặp ngay admin vô cùng đáng yêu, sẽ tư vấn và hỗ trợ các bạn sinh viên

DANH MỤC DỊCH VỤ

Contact Me on Zalo