Pháp luật về chính sách liên quan đến người cao tuổi

Share on facebook
Share on twitter
Share on linkedin
5/5 - (12 bình chọn)

Tỉ lệ người cao tuổi ở nước ta chiếm tỉ lệ phần trăm dân số cũng khá cao so với dân số chung cả nước hiện nay, và có nhiều viện dưỡng lão hình thành, những người lớn tuổi không người thân, không có ai chăm sóc sẽ được đưa vào viện dưỡng lão. Có thể nói viện dưỡng lão là ngôi nhà duy nhất của họ và chỉ có nơi đó các y bác sĩ và những người bạn già cùng học tâm sự chăm sóc bầu bạn với nhau. Nhìn có vể họ vui, nhưng thật ra,  những người lớn tuổi họ như những đứa trẻ vậy đó các bạn. Người ta nói : khi bạn mới sinh ra cha mẹ sẽ là người chăm sóc và nuôi dạy chúng ta, khi cha mẹ về già, họ cần chúng ta chăm sóc vì khi về già, sức khỏe của cha mẹ ta đã yếu đi rất nhiều.

Chúng ta càng lớn, thì cha mẹ chúng ta lại già thêm tuổi, có thể đối với chúng ta bây giờ thêm 1 tuổi cũng chả có vấn đề gì, nhưng đối với người già, thêm 1 tuổi thì sức khỏe họ thêm yếu hơn từng ngày. Chính vì thế hãy yêu thương và chăm sóc cho cha mẹ, ông bà chúng ta khi còn có thể các bạn nhé

Và bài viết dưới đây mình sẽ chia sẻ với các bạn về Pháp luật về chính sách liên quan đến người cao tuổi , các bạn lưu về tham khảo nhé

Hiện nay, có rất nhiều bạn sinh viên không có thời gian hoàn thành bài báo cáo thực tập của mình. Chính vì thế, baocaothuctap.net đã cho ra đời dịch vụ viết báo cáo thực tập  dành cho các bạn sinh viên. Nhanh tay liên hệ sđt / zalo : 0909232620 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất nhé


Mục lục

Các văn bản pháp luật và chính sách liên quan đến người cao tuổi

Những chủ trương của Đảng Sau khi Hội Người cao tuổi Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư TW đã ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy định: “Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Hội Người cao tuổi Việt Nam mới được thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và mở rộng hoạt động ở cơ sở. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các ban đảng, các đoàn thể nhân dân cần giúp đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối hợp với Hội trong việc vận động gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy người cao tuổi phục vụ công cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội nghiên cứu, soát xét các chính sách luật pháp hiện hành, đề xuất những văn bản pháp quy của Nhà nước nhằm bảo vệ, chăm sóc và phát huy người cao tuổi.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

Nhà nước cần dành ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Trước hết cần quan tâm chăm sóc những người cao tuổi có công, cô đơn không nơi nương tựa, tàn tật và bất hạnh, nhanh chóng xoá bỏ tình trạng người già lang thang trên đường phố, ngõ xóm. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ Hội người cao tuổi Việt Nam về kinh phí và điều kiện hoạt động”. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu, những người cao tuổi thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng nhu cầu thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội; nêu gương tốt, giáo dục lí tưởng và truyền thống cách mạng cho thanh niên, thiếu niên…”. Thông báo số 12-TB/TW ngày 13 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định Hội Người cao tuổi Việt Nam là tổ chức xã hội của người cao tuổi, có các nhiệm vụ đã được quy định cụ thể tại Pháp lệnh Người cao tuổi; Hội có Ban đại diện ở cấp tỉnh và cấp huyện; Cấp tỉnh có từ 2 đến 3, cấp huyện có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách đồng thời khẳng định: “Nhà nước tiếp tục trợ cấp kinh phí hoạt động cho Hội.Các cơ quan có chức năng của Nhà nước tạo thuận lợi, bảo đảm cấp kinh phí kịp thời cho Hội”. Trong bài phát biểu tại cuộc gặp mặt nhân ngày quốc tế người cao tuổi (01/10/2002) do TW Hội Người cao tuổi Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nói: “…Chưa bao giờ lực lượng người cao tuổi nước ta lại đông đảo như hiện nay. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tự hào về lớp người cao tuổi nước ta.

Với uy tín cao, sự mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống cùng với vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng lao động và nghiệp vụ phong phú, đa dạng của mình, người cao tuổi thực sự là một bộ phận hợp thành nguồn lực nội sinh quý giá của cả dân tộc. Chúng ta tôn trọng, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực ấy”… Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng ghi rõ: “Vận động toàn dân tham gia cáchoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa…”. Như vậy, từ Chỉ thị 59/CT-TW, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo số 12- TB/TW của Ban Bí thư TW Đảng đều khẳng định: Người cao tuổi là nền tảng của gia đình, là tài sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã hội. Vì thế, chăm sóc và phát huy tốt vai trò người cao tuổi là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

Pháp luật về chính sách liên quan đến người cao tuổi
Pháp luật về chính sách liên quan đến người cao tuổi

Luật pháp và chính sách của Nhà nước với người cao tuổi

Luật pháp liên quan đến người cao tuổi Quan điểm trên của Đảng và Bác Hồ được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946, Điều 14 quy định:

“Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ”. Điều 32 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Giúp đỡ người già, người đau yếu và tàn tật. Mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức khoẻ và cứu trợ xã hội…”. Điều 64 của Hiến pháp 1992 quy định: “…Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ… ”. Và Điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ”. Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 36 quy định:“Con có nghĩa vụ và quyềnchăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật…Và khoản 2 Điều 47 Luật này quy định: “Cháu có bổn phận…chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ngoại”. Luật Bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã dành một chương riêng: Bảo vệ sức khoẻ người cao tuổi … trong đó, khoản 1 Điều 41 của Luật này quy định: “Người cao tuổi … được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khoẻ của mình”.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

Xem Thêm ==> Báo cáo thực tập tại Công ty Luât, Văn phòng Luật sư A-Z

Luật Lao động quy định tại Điều 124: “Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao tuổi, không được sử dụng người lao động cao tuổi làm việc nặng nhọc, nguy hiểm… ảnh hưởng sức khoẻ”. Điều 151 của Bộ luật Hình sự quy định: “Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” và Điều 152 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. Bên cạnh đó, luật cũng quy định một số tình tiết giảm nhẹ khi “người phạm tội là người già”.

Chính sách của Nhà nước Việt Nam về người cao tuổi Năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 117/CP “Về chăm sóc người cao tuổi và hỗ trợ hoạt động cho Hội người cao tuổi Việt Nam”. Chỉ thị khẳng định: “Kính lão đắc thọ” là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, Đảng và Nhà nước ta coi việc quan tâm, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là đạo lý của dân tộc, là tình cảm và trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân. Các cấp chính quyền đã đề ra nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm đó. Để phát huy truyền thống của dân tộc, thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và hỗ trợ hoạt động của Hội Người cao tuổi, Thủ tướng đã chỉ thị:(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

– Về chăm sóc người cao tuổi: Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo các cơ quan chức năng, đơn vị thuộc quyền thường xuyên quan tâm làm tốt công tác chăm sóc người cao tuổi. Công tác này cần được thể hiện trong các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội ngắn hạn và dài hạn của địa phương. Trong chỉ tiêu xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư: Chỉ đạo các cơ quan văn hoá, thông tin, giáo dục và đào tạo đẩy mạnh công tác tuyên tryền, giáo dục nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về ý thức, thái độ và nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ kính rọng người cao tuổi. Các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước trong khi hoạch định các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và các chương trình quốc gia, cần chú ý bồi dưỡng và phát huy nguồn lực người cao tuổi. Hàng năm cần dành một tỷ lệ thích đáng ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội, chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy vai trò người cao tuổi và hỗ trợ Hội người cao tuổi.

– Đối với Hội Người cao tuổi: Hội có tư cách pháp nhân, hoạt động theo điều lệ phù hợp với Hiến pháp và pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự hỗ trợ của Chính phủ về kinh phí và điều kiện hoạt động.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

– Đối với các Bộ, ngành:

+ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý về mặt Nhà nước đối với Hội Người cao tuổi có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn Hội hoạt động theo đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước…

+ Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân các địa phương tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất và hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động cho Hội Người cao tuổi ở Trung ương, xã, phường và thị trấn.

+ Các Bộ, ngành khi soạn thảo các văn bản pháp luật có liên quan đến chính sách đối với người cao tuổi cần tham khảo ý kiến của Hội Người cao tuổi Việt Nam trước khi trình Chính phủ và Quốc hội.

+ Chỉ thị cũng đã đề cập đến Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Thể dục Thể thao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…tạo điều kiện và phối hợp… chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

+ Pháp lệnh Người cao tuổi của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được ban hành năm 2000. Pháp lệnh Người cao tuổi ra đời là bước đi thích hợp để chăm sóc người cao tuổi.

+ Pháp lệnh Người cao tuổi đã dành chương 2: Phụng dưỡng, chăm sóc người cao tuổi (14 Điều) tập trung đề cập trách nhiệm của gia đình, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc phụng dưỡng chăm sóc người cao tuổi trong đó chính sách chăm sóc sức khoẻ được quan tâm khá toàn diện. Điều này đựơc minh chứng ở khoản 2 Điều 10; (khoản 2 Điều 12); (Điều 13); (khoản 1, 2 Điều 14); Điều 15); (Điều 16).

Xem Thêm ==> Báo cáo thực tập ngành Luật kinh tế 

+ Nghị định số 30/CP của Chính phủ ban hành năm 2002 “Quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Người cao tuổi”. Điều 9 nêu rõ: Người cao tuổi được chăm sóc sức khoẻ theo quy định của Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân ngày 11 tháng 8 năm 1989; Người cao tuổi được hưởng dịch vụ ưu tiên khi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế theo Nghị định số 23/ HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày 24 tháng 01 năm 1991 về Điều lệ khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng; Người cao tuổi từ 100 tuổi trở lên được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế.

+ Căn cứ Nghị định số 30, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 16/TT năm 2002 “hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 30/CP của Chính phủ”.

+ Nghị định số 120/CP của Chính phủ về việc sửa đổi Điều 9 của Nghị định số 30/CP năm 2002.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

+ Nghị định số 121/CP của Chính phủ năm 2003 “Về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn” ghi rõ chế độ đối với Chủ tịch Hội người cao tuổi cấp xã.

+ Năm 2004, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 02/ 2004/TT – BYT hướng dẫn thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi trong đó quy định: người cao tuổi được … chăm sóc sức khoẻ, được khám chữa bệnh khi ốm đau, bệnh tật; được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được ưu tiên khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế; Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm đảm bảo chế độ chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi tại địa phương. Ngành y tế chịu trách nhiệm về chuyên môn, kỹ thuật trong chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi… Tổ chức mạng lưới tình nguyện viên chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi tại nhà. Trạm y tế xã, phường, thị trấn có trách nhiệm quản lý sức khoẻ và thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người cao tuổi tại địa phương.

Trường hợp người cao tuổi bị tàn tật, cô đơn không nơi nương tựa bị ốm đau nhưng không đến khám, chữa bệnh tại nơi quy định thì trưởng trạm y tế cấp xã cử cán bộ y tế đến khám, chữa bệnh tại nơi ở của người cao tuổi hoặc báo cáo Uỷ ban nhân dân địa phương tổ chức đưa người bệnh đến cơ sở khám, chữa bệnh… thực hiện việc ưu tiên khám trước cho người bệnh cao tuổi (Sau trường hợp cấp cứu), phát triển các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc nhất là ở tuyến y tế cơ sở đối với người bệnh cao tuổi. Người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên được hưởng các chế độ bảo hiểm y tế theo quy định tại Thông tư số 24/2003 ngày 6/11/2003 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hư- ớng dẫn thi hành Nghị định số 120/2003/NĐ-CP ngày 20/10/2003 của Chính phủ. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài, gia đình của người cao tuổi mua thẻ BHYT cho người cao tuổi.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

Xem Thêm ==> 167 Đề tài Báo Cáo Thực Tập Khoa luật Viện Đại học Mở Hà Nội

Có thể nói, Thông tư 02/2004 của Bộ Y tế đã tiến một bước dài trong việc thể chế hoá chính sách y tế cho người cao tuổi Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng cho việc xây dựng chính sách y tế mới cho người cao tuổi khi Luật Người cao tuổi được Quốc hội thông qua.

-Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 141, năm 2004 “Về việc thành lập Uỷ ban Quốc gia về người cao tuổi Việt Nam”. – Quyết định số 47, năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính “Về việc ban hành quy chế quản lí và sử dụng Quỹ chăm sóc người cao tuổi”.

-Nghị định 67/CP, năm 2007 của Chính phủ “Về chính sách trợ giúp các đối
tượng bảo trợ xã hội”, trong đó có đối tượng là người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội, được hưởng 120.000 đồng/tháng.

Bằng thực tiễn hoạt động của người cao tuổi và Hội Người cao tuổi, Hội Người cao tuổi Việt Nam đã có những đóng góp cụ thể vào các nội dung trong các văn bản pháp quy của Đảng và Nhà nước nêu trên. Các tổ chức Hội vừa triển khai, vừa đúc rút kinh nghiệm, vừa tham mưu, đề xuất với cấp uỷ, chính quyền, từng bước bổ sung những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách đối với người cao tuổi.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

Ban Chấp hành TW Hội Người cao tuổi Việt Nam cùng với tổ chức Hội các cấp đã trực tiếp tham gia bằng nhiều hình thức. Góp ý kiến bằng văn bản vào các báo cáo chính trị tại Đại hội IX, Đại hội X, tham mưu giúp Nhà nước những vấn đề cụ thể về người cao tuổi như: Thành lập Uỷ ban Quốc gia về người cao tuổi Việt Nam, xây dựng chương trình hành động Quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2006 – 2010; Tổng kết 8 năm thực hiện Pháp lệnh Người cao tuổi, chế độ trợ cấp cho người cao tuổi từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội, chế độ khám chữa bệnh cho người cao tuổi, chế độ cho cán bộ Hội các cấp theo công văn 372 của Bộ Nội vụ đầu năm 2008… Từ ngày 1/7/2010, Luật Người cao tuổi có hiệu lực, Luật Người cao tuổi thể hiện rất rõ nét tính ưu việt cũng như truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của xã hội ta.

Ngoài việc được Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể chúc thọ, mừng thọ theo quy định, người cao tuổi sẽ được chăm sóc sức khỏe thông qua việc định kì khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, đặc biệt ưu tiên cho người đủ 80 tuổi trở lên. Các bệnh viện sẽ thành lập các khoa lão khoa hoặc dành một số giường để điều trị người bệnh cao tuổi. Người cao tuổi được chăm sóc đầy đủ hơn về đời sống tinh thần trong hoạt động văn hoá, giáo dục, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch, hưởng phúc lợi từ các công trình công cộng và giao thông công cộng do Nhà nước và xã hội đầu tư.(chính sách liên quan đến người cao tuổi)

Chính phủ sẽ ban hành danh mục dịch vụ mà người cao tuổi sử dụng với mức miễn, giảm nhất định. Mặc dù đất nước còn khó khăn nhưng Đảng, Chính phủ vẫn bố trí một phần ngân sách nhà nước để thực hiện bảo trợ xã hội đối với người cao tuổi, hộ có người cao tuổi nghèo. Theo luật mới ban hành, người đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và bảo hiểm xã hội sẽ được trợ cấp hàng tháng, được hưởng bảo hiểm y tế, được hỗ trợ chi phí mai táng khi chết… Các cơ quan nhà nước cũng có trách nhiệm tạo điều kiện tốt nhất để người cao tuổi phát huy vai trò phù hợp với khả năng của mình thông qua việc bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị, việc trực tiếp cống hiến trong khoa học, sản xuất, kinh doanh…

Như vậy, ngoài nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, chăm sóc của gia đình, người thân, Nhà nước có những cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp và sẽ bổ sung, tăng dần theo xu thế đà tăng trưởng của nền kinh tế để bảo đảm chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi.


Pháp luật về chính sách liên quan đến người cao tuổi hiện đang được quan tâm hàng đầu hiện nay, hy vọng bài viết mình chia sẻ dưới đây sẽ mang đến thông tin hữu ích cho các bạn

Những bạn sinh viên có nhu cầu viết thuê báo cáo thực tập thì hãy liên hệ ngay mình nhé zalo: 0909232620

DANH MỤC DỊCH VỤ

Contact Me on Zalo